Làm gì để chống lại hành vi lẩn tránh xuất xứ hàng hoá?

Thời gian qua, câu chuyện về phòng vệ thương mại trở nên nóng hơn bao giờ hết. Từ vụ kho nhôm trị giá 4,3 chờ ngày qua, hay việc Hải quan liên tục phát hiện ra những lô hàng giả mạo nguồn gốc xuất xứ.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà từ SBLAW đã dành cho báo DDDN bài phỏng vấn với nội dung trên.

Trả lời:

Gian lận xuất xứ hàng hóa là hình thức bất hợp pháp gây ra những tổn hại đến sản xuất, kinh doanh, uy tín thương hiệu của doanh nghiệp và quyền lợi của người tiêu dùng. Có 2 hình thức gian lận xuất xứ hàng hóa: thứ nhất là hành vi gian lận, giả mạo giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) Việt Nam, ghi nhãn hàng hóa tại nước ngoài trước khi nhập khẩu về Việt Nam để tiêu thụ và thứ hai là hành vi gian lận, giả mạo C/O Việt Nam để xuất khẩu.

Việc gian lận xuất xứ từ trước đến nay đối với nước ta chưa bao giờ có dấu hiệu giảm nhiệt. Tuy nhiên thời gian gần đây, câu chuyện này lại nóng hơn bao giờ hết. Hàng loạt những lô hàng không rõ nguồn gố xuất xứ, giả mạo xuất xứ, …liên tục được Hải quan Việt Nam phát hiện và kịp thời ngăn chặn trước khi được đưa vào trong nước tiêu thụ.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vụ việc này là do xung đột thương mại Mỹ – Trung đang chuyển biến một cách phức tạp. Những mặt hàng bị Mỹ đánh thuế nhập khẩu cao, Trung Quốc tìm cách phân tán sang các vùng lân cận. Việt Nam là nước láng giềng giáp với Trung Quốc chắc chắn nằm trong danh sách tẩu tán hàng hóa của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, cũng không thể không kể đến những năm gần đây, Việt Nam tích cực tham gia vào các Hiệp định Thương mại tự do với nhiều lợi thế tích cực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đi kèm với những lợi thế thì Việt Nam đang không tránh khỏi việc bị lợi dụng trở thành noi trung chuyển hàng hóa sang nước thứ ba cũng như hàng hóa nhập khẩu dán nhãn trong nước, gây ra những thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp trong nước.

 

2/ Từ thực tế này đặt ra những vấn đề quản lý gì?

Trả lời:

Từ thực tiễn trên, Chính phủ cùng các ban ngành cần nâng cao hiệu quả quản lý của mình. Tăng cường quản lý nhà nước về chống gian lận xuất xứ hàng hóa và phòng vệ thương mại đồng thời siết chặt công tác kiểm tra hàng hóa từ biên giới, đường mòn, lối mở, chợ đầu mối, …

Đặc biệt phải áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm đủ sức răn đe những hành vi vi phạm. Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các cơ chế tốt nhất cho lực lượng quản lý thị trường, hải quan, thuế nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, hiệp hội, doanh nghiệp.

 

3/ Theo ông, Pháp luật có lỗ hổng không? Cụ thể những lỗ hổng đó là gì?

Trả lời:

Gian lận xuất xứ xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể đến là do hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh việc hàng hóa được ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam. Các quy định hiện hành vẫn chỉ đang trong giai đoạn hoàn thiện để phù hợp với thực tế sản xuất và kinh doanh.

Cụ thể như tại Nghị định số 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu không quy định cụ thể về quy tắc xuất xứ và tiêu chí xuất xứ thế nào là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, mà việc ghi xuất xứ hàng hóa như cụm từ “sản xuất tại” hoặc “chế tạo tại”, “nước sản xuất”, “xuất xứ” hoặc “sản xuất bởi” được giao cho tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu tự xác định.

Lợi dụng kẽ hở này không ít doanh nghiệp đã “góp phần” làm cho câu chuyện gian lận xuất xứ hàng hóa nóng hơn trong thời gian gần đây.

 

4/ Nhiều chuyên gia khẳng định có tình trạng hành lang pháp lý không theo kịp thực tế phát triển? Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào, thưa ông?

Trả lời:

Thực tế cho thấy hiện nay hoạt động ngoại thương đã phát triển nhanh chóng hơn rất nhiều so với thời gian trước, vậy nên văn bản pháp luật cũng cần cập nhật sửa đổi để tạo ra hành lang pháp lý vững chắc hơn.

Mặc dù cho rằng việc sửa đổi cần tiến hành càng sớm càng tốt, các Bộ, ban, ngành vẫn cần cân nhắc kỹ lưỡng việc sửa đổi luật để tránh chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật khác và việc ban hành văn bản để điều chỉnh một vấn đề như ngoại thương là không hề đơn giản.

Vì vậy, có thể khẳng định, còn nhiều khoảng trống về pháp lý trong lĩnh vực này và cũng là nguyên nhân để nhiều đối tác lợi dụng.

 

5/ Bộ Công thương đã thừa nhận nợ những văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề này: Mắc ở đâu, mắc như nào mà Bộ lại nợ?

Trả lời:

Thời gian vừa qua, trước thực trạng gian lận xuất xứ thị trường, Bộ Công Thương cùng các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội doanh nghiệp đã triển khai các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các nhóm hàng có rủi ro cao. Thủ tướng cũng đã ban hành đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” cùng với Nghị định số 43/2017/NĐ-CP quy định về chứng nhận ghi nhãn mác, xuất xứ hàng hoá.

Tuy nhiên nhận thức được sự hạn chế còn tồn đọng trong các văn bản pháp luật, Bộ công thương đã tiếp tục ban hành dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam. 

Cho đến thời điểm này, dự thảo thông tư đã hoàn thành và đang đợi lấy ý kiến phản biện của xã hội, doanh nghiệp, người dân và tổ chức.

Các ý kiến ban đầu cho thấy phạm vi điều chỉnh của thông tư này cần nghiên cứu kỹ hơn, bởi quy định này dựa trên nền tảng bộ quy tắc xuất xứ của hải quan và có phần sao chép lại các quy định hiện hành.

Trước việc một dự thảo Thông tư được ra đời nhanh do sự thúc ép của tình hình ngoại thương nên không tránh khỏi thiếu sót, tôi nghĩ việc ban hành văn bản phải có tính dự báo, nếu tiếp tục làm văn bản kiểu này thì việc nợ văn bản hướng dẫn thi hành sẽ còn tiếp tục.

6/ Theo ông giải pháp về pháp luật cụ thể như nào để chặn những vụ việc tương tự?

Trả lời:

Trên thực tế, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều văn bản quy định như thế nào thì một sản phẩm, hàng hóa được coi là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hay nói cách khác là có xuất xứ Việt Nam.

Tuy nhiên, các quy định này chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, giúp hàng hóa của Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế khi đi vào các thị trường nước ngoài, vậy nên các Cơ quan cần xem xét lại quy định của pháp luật, khẩn trương ban hành thông tư hướng dẫn chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho sản phẩm lưu thông tại thị trường trong nước; trình ban hành nghị quyết của Chính phủ về một số biện pháp cấp bách để tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống gian lận xuất xứ.

Cùng với đó, xem xét kết nối hệ thống trao đổi thông tin dữ liệu giữa Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI) và Tổng cục Hải quan.

Bên cạnh đó cũng cần siết chặt công tác quản lý cấp C/O theo quy định, đồng thời, thực hiện kiểm tra thực tế quy trình sản xuất trước khi cấp C/O hoặc thực hiện dừng cấp C/O với các doanh nghiệp có hành vi gian lận xuất xứ.

Các cơ quan chức năng cần tích cực học tập kinh nghiệm nước ngoài trong hoạt động quản lý ngoại thương, tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành luật quản lý ngoại thương.

 

7/ Giải pháp về quản lý (cụ thể từng cơ quan chức năng có liên quan) như nào?

Trả lời:

Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung gia tăng, cả hai nước đều bổ sung thuế nhập khẩu, theo đó làm gia tăng nguy cơ gian lận xuất xứ hàng hóa.

Một số hàng hóa của Trung Quốc có thể được chuyển qua Việt Nam để mượn xuất xứ, rồi xuất khẩu đi Mỹ. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã mất những thị trường xuất khẩu quan trọng là hậu quả của tình trạng gian lận xuất xứ, gây ảnh hưởng đến ngành hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Do đó, Chính phủ Việt Nam cần triển khai nhiều biện pháp để chống gian lận thương mại, chuyển tải bất hợp pháp. Trong đó, Cục Hải quan các tỉnh, TP cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc khai báo xuất xứ trên tờ khai hải quan và việc ghi nhãn hàng hóa xuất nhập khẩu. Đồng thời, phân tích các số liệu thống kê xuất nhập khẩu để xác định danh sách các mặt hàng trọng điểm, có rủi ro cao về nghi vấn gian lận xuất xứ.

 VCCI – một trong những tổ chức cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa cần tăng cường kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, chuyển tải từ Việt Nam đi các nước để thực hiện việc cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa đúng quy định.

Bên cạnh đó, các hiệp hội cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khuyến cáo để các doanh nghiệp tỉnh táo, thận trọng trong hợp tác làm ăn; tránh cách làm ăn chụp giật, chạy theo những lợi ích trước mắt, tiếp tay cho các hành vi lợi dụng, gian lận thương mại, gây ảnh hưởng đến uy tín, thậm chí thiệt hại đến các ngành sản xuất trong nước.

Việt Nam tham gia hàng loạt các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), vì vậy, sự chung tay của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp sản xuất trong nước để ngăn chăn vấn nạn này là việc làm cần thiết.

8/ Trong bối cảnh này, ông có khuyến nghị nào cho doanh nghiệp, thưa ông?

Trả lời:

Trước tiên, doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng và thực hiện đúng các quy định về xuất xứ hàng hóa; đặc biệt trong việc đào tạo nhân viên nghiệp vụ chuyên phụ trách hoạt động về C/O để biết cách kê khai và biết được thủ tục xin cấp C/O.

Thứ hai, doanh nghiệp cần phối hợp với các hiệp hội liên quan để tìm hiểu cụ thể về những cam kết, quy định trong các hiệp định thương mại liên quan đến ngành sản xuất, kinh doanh của mình. Qua đó, doanh nghiệp có kế hoạch hành động thích hợp để tận dụng cơ hội cũng như có sự chuẩn bị để đối phó với thách thức, nguy cơ, tác động tiêu cực trong bối cảnh xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn và gian lận thương mại về xuất xứ gia tăng.

Thứ ba, doanh nghiệp cũng cần tiếp tục nỗ lực thúc đẩy mở rộng mối quan hệ kinh doanh, thương mại với đối tác thuộc các nước cho hưởng ưu đãi cho phép sử dụng tiêu chuẩn xuất xứ nước bảo trợ. Chủ động nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Đồng thời, phải hết sức lưu ý, không nên chỉ vì vài doanh nghiệp được hưởng lợi mà làm nhiều ngành nghê khác và tất cả các doanh nghiệp khác bị ảnh hưởng và có thể sẽ bị nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, hạn chế nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam gây ảnh hưởng đến nền kinh tế chung của cả nước.

SBLAW tư vấn về bảo hộ thương hiệu và các tài sản trí tuệ khác một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả:
Quý khách cần sử dụng dịch vụ bảo hộ tài sản trí tuệ, vui lòng liên hệ trực tiếp đến.
  • Điện thoại – Chat Zalo
  • Email address
Tin tức liên quan