Sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ không bị coi là xâm phạm
Các trường hợp ngoại lệ khi sử dụng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà không bị coi là xâm phạm
Luật SHTT liệt kê các hành vi sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nhưng không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm:
1. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được bảo hộ nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại; nhằm mục đích đánh giá, phân tích nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép nhập khẩu, sản xuất, lưu hành sản phẩm.
2. Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm đã được chủ sở hữu công nghiệp đưa ra thị trường (kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp), trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người đựoc phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường.
3. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam.
4. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp do ngưới có quyền sử dụng trước thực hiện.
5. Sử dụng sáng chế do người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện.
6. Sử dụng thiết kế bố trí khi không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết thiết kế bố trí đó được bảo hộ.
7. Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó.
8. Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, chất lượng, số lượng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.
9. Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh thu được khi không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được một cách bất hợp pháp.
10. Bộc lộ dữ liệu bí mật kinh doanh nhằm bảo vệ công chúng.
11. Sử dụng dữ liệu bí mật không nhằm mục đích thương mại.
12. Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập.
13. Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm đựơc phân phối một cách hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thoả thuận nào khác với chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc nguời bán hàng. (Điều 125 Luật SHTT)
Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp không có quyền ngăn cấm người khác thực hiện các hành vi trên.