Sáng chế là giải pháp kỹ thuật có giá trị to lớn, nhưng để được cấp Bằng độc quyền sáng chế, giải pháp đó phải đáp ứng đồng thời ba điều kiện nghiêm ngặt được quy định tại Khoản 1 Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Việc hiểu rõ ba tiêu chí Tính mới, Trình độ sáng tạo và Khả năng áp dụng công nghiệp là nền tảng để doanh nghiệp và cá nhân xây dựng và bảo vệ thành quả nghiên cứu của mình.
1. Sáng Chế và Giải Pháp Kỹ Thuật
Sáng chế được định nghĩa là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề được xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên (Khoản 12 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ).
Giải pháp kỹ thuật được hiểu là cơ cấu, phương pháp hay chất mới hoặc sử dụng cơ cấu, phương pháp cũ theo chức năng mới.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế (nếu đáp ứng đầy đủ ba tiêu chí trên) hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (nếu thiếu tiêu chí Trình độ sáng tạo nhưng vẫn có Tính mới và Khả năng áp dụng công nghiệp).
2. Chi Tiết Ba Điều Kiện Bảo Hộ Sáng Chế
Theo Điều 27 Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh thương mại có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ) và Khoản 1 Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ, Bằng độc quyền sáng chế có thể được cấp cho bất kỳ sáng chế nào, bất kể là sản phẩm hay quy trình, trong tất cả các lĩnh vực công nghệ với điều kiện sáng chế đó là: có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.
2.1. Tính Mới (Novelty)
Định nghĩa: Sáng chế được công nhận là mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây (Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ):
- Sáng chế nếu nêu trong đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế không trùng với giải pháp được mô tả trong đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế đã được nộp cho cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn.
- Trước ngày ưu tiên của đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn chưa bị bộc lộ công khai ở trong nước hoặc nước ngoài dưới hình thức sử dụng hoặc mô tả trong bất kỳ nguồn thông tin nào dưới đây tới mức mà căn cứ vào đó người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được giải pháp đó:
- Các nguồn thông tin liên quan đến sáng chế ở nước ngoài (ấn phẩm, phim ảnh, băng từ, đĩa, đĩa quang phát thanh, truyền thanh, truyền hình) – tính từ ngày công bố tin, vật mang tin bắt đầu được lưu hành.
- Các nguồn thông tin đại chúng (báo cáo khoa học, các bài giảng, triển lãm quốc tế) – tính từ ngày được công bố, giảng bài, hay hiện vật bắt đầu được trưng bày.
Ngoại lệ (Ân hạn): Pháp luật Việt Nam quy định một số trường hợp được miễn trừ khỏi khả năng mất tính mới nếu sáng chế bị bộc lộ không quá 06 tháng trước ngày nộp đơn, bao gồm: bị bộc lộ do người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học hoặc giảng bài, hoặc được trưng bày tại triển lãm quốc gia hoặc quốc tế được công nhận.
2.2. Trình Độ Sáng Tạo (Inventive Step / Non-obviousness)
Định nghĩa: Theo chú thích số 5 của Điều 27 Hiệp định TRIPS, Trình độ sáng tạo có thể được hiểu là đồng nghĩa với thuật ngữ “không hiển nhiên”.
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kì hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên, sáng chế đó là một bước sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có trình độ trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng (Điều 61 Luật sở hữu trí tuệ).
Như vậy, sáng chế phải được tạo ra từ quá trình đầu tư sáng tạo nhất định, phải là thành quả của ý tưởng sáng tạo nổi trội, có thể nhận biết rõ ràng. Giữa trình trạng kĩ thuật đã được biết trước đó và sáng chế yêu cầu bảo hộ phải tạo ra bước tiến sáng tạo rõ rệt.
2.3. Khả Năng Áp Dụng Công Nghiệp (Industrial Applicability)
Định nghĩa: Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu:
- Thông tin về bản chất của giải pháp cùng với chỉ dẫn điều kiện kỹ thuật cần thiết được trình bày một cách rõ ràng và đầy đủ đến mức cho phép người có trình độ hiểu biết trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể tạo ra, sản xuất ra hoặc có thể sử dụng, khai thác hoặc tiến hành được giải pháp đó.
- Việc tạo ra, sản xuất ra, sử dụng, khai thác hoặc tiến hành giải pháp đó có thể được lặp đi lặp lại với kết quả giống nhau và giống với kết quả được nêu trong đơn.
Điều kiện này là đặc điểm khác biệt giữa sáng chế với phát minh khoa học. Phát minh khoa học chủ yếu thể hiện dưới góc độ lý thuyết chưa thể hiện khả năng áp dụng chúng vào thực tiễn trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội và do đó không được bảo hộ theo pháp luật về sở hữu công nghiệp. Trong Hiệp định TRIPS, thuật ngữ “khả năng áp dụng công nghiệp” có thể được hiểu tương đương với thuật ngữ “hữu ích”.
3. Các Đối Tượng Bị Loại Trừ Khỏi Bảo Hộ Sáng Chế
Pháp luật SHTT Việt Nam (Điều 59 Luật sở hữu trí tuệ) quy định rõ các đối tượng không được Nhà nước bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế, bao gồm:
- Các đối tượng không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn ứng dụng công nghiệp của sáng chế (ý đồ, nguyên lí khoa học, phương pháp toán học; giải pháp chỉ đề cập hình dáng bên ngoài của sản phẩm chỉ mang đặc tính thẩm mỹ mà không mang đặc tính kỹ thuật).
- Các đối tượng được bảo hộ theo quy định của quyền tác giả (sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính; cách thức thể hiện thông tin).
- Các đối tượng cần phải được mở rộng phạm vi áp dụng vì mục đích nhân đạo hay nhu cầu cấp bách để phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước, bao gồm:
- Các phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa trị bệnh cho người và động vật áp dụng trên cơ thể người và động vật.
- Thực vật và động vật không phải là các chủng vi sinh, các quy trình sản xuất thực vật và động vật chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh.
Đối chiếu với Hiệp định TRIPS, các đối tượng bị loại trừ này tương ứng với các phương pháp chẩn đoán, phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh, và thực vật/động vật không phải là các quy trình vi sinh.
Việc đánh giá và chuẩn bị hồ sơ đáp ứng cả ba điều kiện này đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về pháp luật và kiến thức kỹ thuật. Luật sư SBLAW sẵn sàng tư vấn chuyên sâu, hỗ trợ quý khách hàng thẩm định tính khả thi của sáng chế trước khi nộp đơn, đảm bảo khả năng được cấp bằng độc quyền cao nhất.
