Quản lý chỉ dẫn địa lý ở việt nam nhìn từ góc độ kinh nghiệm của cộng hoà pháp

Quản lý chỉ dẫn địa lý ở việt nam nhìn từ góc độ kinh nghiệm của cộng hoà pháp

Quản lý chỉ dẫn địa lý ở việt nam nhìn từ góc độ kinh nghiệm của cộng hoà pháp:

Tóm tắt: Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ một khu vực địa lý, có chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính khác chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định. Ba yếu tố quan trọng đối với chỉ dẫn địa lý là sản phẩm, nơi xuất xứ và các nhân tố liên quan tới đặc tính, chất lượng sản phẩm.

Vì vậy, điểm mấu chốt của việc quản lý chỉ dẫn địa lý chính là cơ chế đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc địa lý của sản phẩm và đảm bảo tính đặc thù của sản phẩm thông qua quy trình kiểm soát chặt chẽ về chất lượng sản phẩm.

Pháp là quốc gia có hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý hoàn thiện và có ảnh hưởng lớn đến chính sách này ở Châu Âu. Việt Nam và Pháp có quan hệ hợp tác trong nhiều lĩnh vực, trong đó Pháp giúp Việt Nam xây dựng khung pháp lý và đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho những chỉ dẫn địa lý đầu tiên là nước mắm Phú Quốc, chè Shan Tuyết Mộc Châu. Về mặt nguyên tắc, việc xây dựng khung pháp lý về bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo chuẩn của Pháp và Châu Âu sẽ giúp cho các sản phẩm của Việt Nam có thể được bảo hộ tại thị trường Châu Âu mà không gặp trở ngại về mặt thủ tục. Vì vậy việc tìm hiểu kinh nghiệm của Pháp trong công tác quản lý chỉ dẫn địa lý là cần thiết. Bài viết sẽ giới thiệu về hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý của Pháp và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1. Hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý của Pháp

Hình 1:

Hệ thống quản lý chất lượng của Pháp

Nguồn: tác giả tổng hợp

Tự quản lý:Việc tự quản lý được thực hiện bởi chính các hộ sản xuất. Mặc dù các cơ sở sản xuất phải tuân theo Quy trình sản xuất có kiểm soát đã được quy định trong hồ sơ đăng bạ mới được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Ngay cả khi yêu cầu này đã được đáp ứng, thì chất lượng sản phẩm của các nhà sản xuất đó cũng ở mức độ khác nhau. Việc tự quản lý tại các cơ sở sản xuất nhằm đảm bảo không chỉ danh tiếng chung của chỉ dẫn địa lý mà còn cả danh tiếng cá nhân cho các hộ sản xuất, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm so với chính các sản phẩm cùng loại trong khu vực.

Quản lý nội bộ:Việc quản lý nội bộ được thực hiện bởi Tổ chức tập thể các nhà sản xuất địa phương. Tổ chức này có nhiệm vụ: tiến hành kiểm tra về nguồn gốc nguyên liệu; định hướng, kiểm tra, giám sát về sản xuất, chế biến và chất lượng sản phẩm; xác nhận cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ; giám sát việc tuân thủ các quy định trong sản xuất, chế biến; kiểm soát việc chuyển nhượng quyền sử dụng giữa hộ sản xuất và hộ chế biến, hộ thương mại. Trong đó, việc cấp phép sử dụng chỉ dẫn địa lý cho các nhà sản xuất là công việc quan trọng, được tiến hành ngay khi chuẩn bị hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý.

Ở Pháp, vai trò của tổ chức tập thể các nhà sản xuất thực sự được phát huy, thể hiện ở các đặc điểm: là một tổ chức mở, một tổ chức chuyên nghiệp và dân chủ, không bị chính trị hóa và hành chính hóa, được sự hỗ trợ tích cực của nhà nước đối với tổ chức tập thể về thương mại, thị trường, tài chính: máy móc, thiết bị, tài chính hoạt động thường xuyên.

Một số tổ chức tập thể quản lý chỉ dẫn địa lý của Pháp như Liên ngành rượu Cognac, Hiệp hội các nhà sản xuất rượu Bordeaux, Hiệp hội pho mát Le Banon, Hiệp hội các nhà sản xuất và kinh doanh pho mát Comté… Các tổ chức tập thể này do các nhà sản xuất và kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tự lập nên với chức năng đại diện cho các nhà sản xuất, kinh doanh là thành viên hiệp hội. Các tổ chức tập thể này có cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động chặt chẽ, luôn thể hiện đầy đủ vai trò là người đại diện cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh để họ có thể khai thác chỉ dẫn địa lý một cách hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của hiệp hội phải bảo đảm mục tiêu quản lý có hiệu quả chỉ dẫn địa lý thay vì việc tạo ra một thể chế mang tính hành chính, tạo thêm gánh nặng cho những người có quyền sử dụng đối tượng này.

Quản lý ngoại vi:hoạt động quản lý ngoại vi tập trung vào khâu lưu thông và khai thác thương mại các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm phát hiện ra hàng giả hoặc không đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm. Việc quản lý ngoại vi trước kia thường do các tổ chức công thực hiện, như Viện quốc gia về xuất xứ và chất lượng (là cơ quan đầu mối, có chức năng quản lý bên ngoài đối với tất cả các chỉ dẫn địa lý, trao quyền sử dụng và quyết định khả năng sử dụng chỉ dẫn địa lý), Hải quan (quản lý số lượng và các thống kê ngoại thương), Cục cạnh tranh, tiêu dùng và chống gian lận thương mại (thực hiện chức năng kiểm tra xuất xứ thật của hàng hóa nếu xét thấy có sự vi phạm, kiểm tra sự tuân thủ quy trình sản xuất theo yêu cầu của thực tế, kiểm tra việc sử dụng nhãn mác đã đăng ký), Bộ Nông nghiệp (Vụ sản xuất và thương mại, kiểm tra sản lượng và các quan hệ quốc tế), Viện Sở hữu trí tuệ quốc gia (phụ trách quan hệ quốc tế về nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ), Vụ Quan hệ đối ngoại (phụ trách quan hệ với cộng đồng Châu Âu)… Tuy nhiên, từ năm 2006, Pháp cho phép các tổ chức tư nhân tham gia hoạt động này với điều kiện các tổ chức tư nhân này được Cơ quan Quốc gia về xuất xứ và chất lượng chứng nhận đủ thẩm quyền thực hiện việc quản lý ngoại vi.

Nhìn chung, hoạt động kiểm soát chất lượng đối với chỉ dẫn địa lý được triển khai ở Pháp theo một số nguyên tắc nhất định:

– Việc quản lý được tiến hành độc lập và không nhầm lẫn với các cơ chế kiểm tra hành chính khác của các cơ quan như: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, thú y, phúc lợi xã hội, các cơ sở pha chế thực phẩm, người bán thực phẩm, các quy tắc vệ sinh tại các cơ sở giết mổ, vận chuyển và xử lý thực phẩm, các chất phụ gia, chất lượng nước…

– Các tổ chức thực hiện chức năng kiểm tra phải có đủ năng lực và trình độ để đảm bảo tính khách quan và công bằng đối với tất cả các nhà sản xuất và chế biến trong khu vực địa lý được kiểm soát.

– Nội dung kiểm tra chỉ bao gồm những khía cạnh đặc thù, riêng biệt và quyết định đến chất lượng đặc thù của sản phẩm.

Chính hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý của Pháp một cách quy chuẩn và chặt chẽ cũng góp phần làm nên danh tiếng các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý của Pháp. Hiện Pháp có 561 tên gọi xuất xứ và 80 chỉ dẫn địa lý với doanh số hàng năm lên đến gần 30 tỷ euro. Trong đó, khoảng 474 tên gọi xuất xứ đã được đăng ký bảo hộ cho rượu vang và rượu mạnh; 48 tên gọi xuất xứ đã được đăng ký cho phomát, kem hoặc bơ; 39 tên gọi xuất xứ được đăng ký cho các sản phẩm khác. Cả nước có 75000 cơ sở sản xuất nông nghiệp tham gia sản xuất các sản phẩm mang tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu đỏ. Các sản phẩm này đạt doanh thu ròng là 30 tỷ euro, chiếm 15 % doanh thu của toàn ngành thực phẩm [2]

2. Quản lý chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ dẫn địa lý thuộc quyền sở hữu của nhà nước, vì vậy, nhà nước có thể trực tiếp thực hiện quyền quản lý thông qua các cơ quan chức năng như (Bộ Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Bộ Khoa học và công nghệ (KHCN)…) hoặc trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý (Luật SHTT, điều 121.4). Đó có thể là UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơ icó vùng địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý hoặc Cơquan được UBND cấp tỉnh xác định và trao quyền quản lý.

Hình 2:

Hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam

Hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam

Nguồn: tác giả tổng hợp

Hiện nay, những quy định về chủ thể cũng như nội dung quản lý chỉ dẫn địa lý của Việt Nam chưa cụ thể, vì vậy mặc dù đã có 15 chỉ dẫn địa lý được đăng ký bảo hộ[3]

nhưng mỗi chỉ dẫn địa lý lại được quản lý theo một hướng khác nhau. Đánh giá hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý của Việt Nam sẽ dựa trên thực trạng hoạt động của tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, nhân tố được coi là có tính chất quyết định đến sự thành công của việc quản lý chỉ dẫn địa lý.

Nhóm 1: Các chỉ dẫn địa lý chưa có tổ chức tập thể

Đối với một số chỉ dẫn địa lý chưa có tổ chức tập thể, việc quản lý chỉ dẫn địa lý hầu như chưa được thực hiện. Đối với các chỉ dẫn địa lý này, việc tiến hành các thủ tục yêu cầu
đăng ký bảo hộ quyền SHCN do Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện như UBND tỉnh Đắk Lắk (cà phê Buôn Ma Thuột), Sở KHCN Phú Thọ (bưởi Đoan Hùng), Sở KHCN Lạng Sơn (hồi Lạng Sơn), Chi cục Tổng cục đo lường chất lượng tỉnh Bình Thuận (nước mắm Phan Thiết), Sở KHCN Nghệ An (cam Vinh), UBND tỉnh Thái Nguyên (chè Tân Cương), UBND tỉnh Bắc Giang (vải thiều Lục Ngạn), UBND tỉnh bạc Liêu (gạo Hồng dân). Điều này có nghĩa là cơ quan quản lý, lẽ ra phải thực hiện chức năng quản lý bên ngoài lại thực hiện trực tiếp hoạt động liên quan đến chỉ dẫn địa lý. Chính vì vậy, chưa có hoạt động quản lý nhà nước theo đúng bản chất là quản lý từ bên ngoài đối với các chỉ dẫn địa lý này. Điều này đã dẫn đến rất nhiều hạn chế, cụ thể là:

– Các chỉ dẫn địa lý chưa xây dựng được quy trình chuẩn về sản xuất và kinh doanh do không có tổ chức tập thể những nhà sản xuất, kinh doanh của khu vực tham gia. Do vậy, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý chưa được thực hiện theo một quy trình chuẩn chung, chưa có cơ chế đảm bảo chất lượng đồng đều cho sản phẩm.

– Chưa có cơ quan kiểm soát bên ngoài chất lượng sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Cơ quan quản lý nhà nước vừa là chủ thể quản lý, kiểm soát chất lượng đồng thời thực hiện cả những hoạt động như tổ chức tập thể dẫn đến tình trạng không phân biệt hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm soát ngoại vi chất lượng sản phẩm.

– Chưa triển khai các hoạt động nhằm phát triển các kênh thương mại, các hoạt động quảng bá sản phẩm do đó, chưa tạo ra sự khác biệt về giá trị kinh tế của sản phẩm trước và sau khi chỉ dẫn địa lý được đăng bạ.

– Chưa có các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về chỉ dẫn địa lý nên các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm chưa nhận thức rõ vai trò của chỉ dẫn địa lý trong việc phát triển nâng cao giá trị cho sản phẩm.

– Chưa có chỉ dẫn địa lý nào triển khai hoạt động cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, do đó, mặc dù đã được đăng ký bảo hộ nhưng trên thực tế, về mặt pháp lý, chưa nhà sản xuất nào được quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.

Nhóm 2: Đã thành lập tổ chức tập thể nhưng tổ chức này chưa thực sự tham gia vào quá trình quản lý chỉ dẫn địa lý. Đó là trường hợp của Hiệp hội thanh long Bình Thuận và Hội nước mắm Phú Quốc.

Hiệp hội thanh long Bình Thuận được thành lập từ năm 2003 với mục đích liên kết, hợp tác, hỗ trợ các hộ sản xuất, kinh doanh thanh long nhằm đảm bảo sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,tăng thu nhập cho hội viên. Ngoài ra, Hiệp hội có trách nhiệm phối hợp với Ban Kiểm soát (do Sở KHCN tỉnh Bình Thuận thành lập) thực hiện việc kiểm soát chất lượng sản phẩm. Thông thường mô hình quản lý chỉ dẫn địa lý hợp lý cần phân bổ một cách cân đối vai trò, trách nhiệm của Cơ quan Kiểm soát và của Tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, từ đó, các hoạt động kiểm soát từ bên ngoài và trong nội bộ được tiến hành song song. Đối với chỉ dẫn địa lý Bình Thuận, Hiệp hội hầu như không hình thành cơ cấu kiểm soát nội bộ, không có các nhân viên kiểm soát quá trình trồng, thu hoạch thanh long của các hội viên. Như vậy, hoạt động kiểm tra nội bộ, giám sát hiện trạng sản xuất, kinh doanh lẽ ra phải được thực hiện bởi tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh chưa được thực hiện. Điều này dẫn tới hậu quả không xác định được số lượng thực tế thanh long được sản xuất và lưu thông ra thị trường, gây khó khăn cho quá trình kiểm soát, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây có thể coi là kết quả trực tiếp của cơ cấu tổ chức hệ thống kiểm soát chất lượng đơn giản, lỏng lẻo, chỉ tập trung vào Ban Kiểm soát mà UBND tỉnh Bình Thuận đã xây dựng. Trên thực tế, hoạt động của Ban Kiểm soát chỉ dẫn địa lý Thanh long Bình Thuận cũng bộc lộ nhiều sơ hở như việc trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý (thể hiện bằng việc cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sử dụng chỉ dẫn địa lý và Giấy phép sử dụng chỉ dẫn địa lý) chỉ thực hiện thông qua đánh giá hồ sơ và xem xét hiện trạng sản xuất, lấy mẫu sản phẩm trong vòng 30 ngày mà không có các hoạt động kiểm soát thường xuyên như lập sổ theo dõi hiện trạng canh tác, thu hoạch thực tế của các hộ nông dân…Việc phát hiện sai phạm chủ yếu được thực hiện sau khi sản phẩm đã lưu thông trên thị trường.

Sự tham gia nhiều và sâu của các cơ quan chức năng Nhà nước, nhiều Bộ, Ban ngành trong việc kiểm soát chất lượng đối với nước mắm Phú Quốc làm cho hệ thống trở nên cồng kềnh, chồng chéo, chính vì vậy, hiệu quả thực tế vẫn chưa cao. Bên cạnh đó, cũng giống như thanh long Bình Thuận, mô hình vẫn đặt nặng trách nhiệm của Ban Kiểm soát, tất cả các hoạt động kiểm soát hiện trạng sản xuất, chế biến, tình hình kinh doanh, vốn dĩ nên thuộc trách nhiệm kiểm soát nội bộ của Hiệp hội sản xuất, kinh doanh nước mắm Phú Quốc, hiện nay đều do Ban Kiểm soát đảm nhiệm.

Như vậy, có thể thấy mặc dù Tổ chức tập thể của hai chỉ dẫn địa lý này được thành lập, tuy nhiên vai trò của họ khá mờ nhạt. Trên thực tế, hoạt động của hai tổ chức tập thể này bị hành chính hoá và chính trị hoá, chỉ dừng lại ở các quy định do các Cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương ban hành, hoạt động quản lý bên ngoài và hoạt động quản lý bên trong bị lẫn lộn.

Nhóm 3:Tổ chức tập thể đóng vai trò nòng cốt, xuyên suốt quá trình xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý. Đó là trường hợp gạo tám xoan Hải Hậu và vải thiều Thanh Hà.

Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu được thành lập tháng 10/2005 với mục đích khôi phục lại các giống lúa tám truyền thống, có chất lượng cao dưới sự hộ trợ của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp. Tiếp đó, Hiệp hội tiến hành nghiên cứu chất lượng đặc thù của gạo tám xoan, xác định điều kiện địa lý đặc trưng ảnh hưởng đến đặc thù chất lượng, từ đó, khoanh vùng khu vực địa lý. Hiệp hội cũng tiến hành nghiên cứu, xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác, chăm bón, thu hoạch và quy trình công nghệ sau thu hoạch kết hợp áp dụng các kinh nghiệm truyền thống với kỹ thuật hiện đại. Hiệp hội phối hợp với các cơ quan chuyên môn xây dựng cơ chế và tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc áp dụng quy trình kỹ thuật chuẩn trong canh tác, chế biến gạo tám xoan Hải Hậu.

Sau khi xây dựng và vận hành ổn định hệ thống quản lý, Hiệp hội tiến hành đăng ký chỉ dẫn địa lý Hải Hậu. Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng đã tập hợp những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ (437 hộ xã viên) tham gia vào thị trường với khối lượng sản phẩm lớn và ổn định (sản xuất 54 ha theo một quy trình, hộ nông dân sản xuất và thương mại cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận). Nhờ đó, gạo tám xoan Hải Hậu truyền thống đã được khôi phục và có chất lượng đồng nhất khi đưa ra thị trường. Đặc biệt, Hiệp hội đã chủ động tìm kiếm kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm thông qua các đại lý chính thức tại Hà Nội và một số thị trường khác. Điều này không chỉ giúp người sản xuất yên tâm về đầu ra cho sản phẩm mà còn giúp người tiêu dùng có thể dễ dàng mua được sản phẩm mang chỉ dẫn gạo tám xoan Hải Hậu.

Đối với Hiệp hội sản xuất và tiêu thụ vải Thiều Thanh Hà, công việc đầu tiên của Hiệp hội là xây dựng quy trình kỹ thuật tập thể kết hợp giữa kinh nghiệm sản xuất truyền thống của nông dân và những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tổ chức áp dụng quy chế giám sát chất lượng nội bộ từ sản xuất đến tiêu thụ. Năm 2006, với sự hỗ trợ của Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức (GTZ), Hiệp hội đã tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao năng lực tổ chức và quản lí chất lượng ngành hàng và tiến hành các thủ tục đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm. Sau khi chỉ dẫn địa lý Thanh Hà được bảo hộ, Hiệp hội đã triển khai nhiều hoạt động nhằm mở rộng vùng sản xuất, nâng cao sản lượng vải. Sản phẩm vải thiều mang chỉ dẫn địa lý đã được xuất khẩu chuyến đầu tiên sang CHLB Đức tháng 6/2007 mở đầu cho xuất khẩu lô hàng 20-25 tấn vải thiều sơ chế, đóng gói với giá cao hơn từ 30 đến 40% giá vải cùng loại đang bán trên thị trường trong nước. Năm 2007, một số công ty đã thu mua lượng vải thiều gấp 8 lần so với năm 2006, góp phần giải quyết khó khăn đầu ra cho vùng vải truyền thống nổi tiếng này.

Mặc dù hai sản phẩm vải thiều Thanh Hà và gạo tám xoan Hải Hậu có số lượng hạn chế vì vậy việc quản lý không quá khó khăn, tuy nhiên thành công bước đầu của các tổ chức tập thể này đã khẳng định vai trò không thể thiếu của tổ chức tập thể trong việc quản lý chỉ dẫn địa lý.

3. Bài học kinh nghiệm cho hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam

a. Đặc trưng của hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý chính là việc quản lý không chỉ ở khâu sản xuất, từ nguồn nguyên liệu đầu vào, kiểm soát chất lượng trong quá trình sản xuất… mà còn quản lý cả kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, ngoài việc kiểm soát nội bộ, hoạt động kiểm soát ngoại vi cũng rất quan trọng.

b. Cần thành lập hoặc xác định chủ thể quản lý chỉ dẫn địa lý

Việc quản lý chỉ dẫn địa lý là hoạt động tập thể, vì vậy, cần phải tập hợp thành các tổ chức tập thể, dưới dạng hợp tác xã, hiệp hội các nhà sản xuất với các thành viên là các nhà sản xuất tự nguyện tham gia để phát triển và quản lý chỉ dẫn địa lý. Các tổ chức này đóng vai trò đặc biệt quan trọng và là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng, phát triển và quản lý chỉ dẫn địa lý.

c. Cần huy động tối đa sức mạnh của các tổ chức, cá nhân liên quan

Mặc dù chỉ dẫn địa lý thuộc sở hữu Nhà nước, nhưng việc sử dụng và khai thác chỉ dẫn địa lý thuộc về các cá nhân và tổ chức liên quan của khu vực địa lý. Chính vì vậy, thành phần tham gia tổ chức tập thể cần có đại diện của không chỉ những cơ sở sản xuất mà còn nên có đại diện của cả các hộ kinh doanh để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các tổ chức và cá nhân trong chuỗi hoạt động liên quan đến quản lý chỉ dẫn địa lý.

d. Nâng cao năng lực, tính độc lập của tổ chức tập thể trong hoạt động quản lý

Theo quy định của Pháp, tổ chức tập thể các nhà sản xuất, chế biến và thương mại có vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình quản lý chỉ dẫn địa lý. Đó là một tổ chức tập thể chặt chẽ có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý. Quyền lợi của họ là được Nhà nước trao cho quyền sử dụng, công nhận giá trị sản phẩm và bảo hộ hiệu quả. Ngược lại, tổ chức tập thể phải có trách nhiệm đảm bảo sự phát triển, tính bền vững của sản phẩm và các lợi ích cộng đồng. Trách nhiệm của tổ chức tập thể càng cao khi chất lượng và sự nổi tiếng của sản phẩm đã tồn tại lâu đời và phổ biến trên thế giới.

e. Giảm thiểu các thủ tục hành chính

Việc quy định chỉ dẫn địa lý là tài sản của nhà nước, thuộc sở hữu của nhà nước, tuy nhiên điều này không đồng nghĩa với việc giao việc quản lý chỉ dẫn địa lý cho các cấp chính quyền, các cơ quan hành chính nhà nước. Việc quản lý thông qua nhiều thủ tục hành chính sẽ dẫn đến tình trạng cơ cấu tổ chức hoạt động của Tổ chức tập thể mất đi tính dân chủ, làm giảm tính chủ động của các thành viên và làm giảm uy tín, vai trò của người lãnh đạo tổ chức tập thể. Vì vậy, kinh nghiệm phát triển tổ chức tập thể như một tổ độc lập về chính trị, không bị hành chính hóa như ở Pháp là cần thiết.

Thực tiễn quản lý chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý dựa trên mô hình của Pháp và Châu Âu, nhưng trong quá trình thực hiện, những nội dung triển khai của Việt Nam còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có 15 chỉ dẫn địa lý được cấp văn bằng bảo hộ nhưng ngoài việc công nhận một tên gọi đã tồn tại từ lâu, việc quản lý và khai thác các chỉ dẫn địa lý chưa được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm của Pháp trong việc quản lý chỉ dẫn địa lý là rất cần thiết..

Tài liệu tham khảo

1. Website của Viện quốc gia về xuất xứ và chất lượng: http://www.inao.gouv.fr

2. Bérard, L.andP.Marchenay (1996), Tradition, regulation and intellectual property: localagri cultural products and foods tuffs in France, Island Press, pp. 230-43

3. Đào Đức Huấn (2008), Quản lý chỉ dẫn địa lý: kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Hội thảo Xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý, Buôn Ma Thuột 5/2008

4. Cục Sở hữu trí tuệ, Vai trò của Tổ chức tập thể trong việc xây dựng, quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, Hội thảo Xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý, Buôn Ma Thuột 5/2008

[1] Giảng viên Môn Sở hữu trí tuệ và Thương hiệu, Trường ĐH Ngoại thương

[2] Nguồn: Website của Viện quốc gia về xuất xứ và chất lượng: http://www.inao.gov.fr

[3] Các chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp gồm Phú Quốc (nước mắm), Shan tuyết Mộc Châu (chè), Đoan Hùng (bưởi), Buôn Ma Thuột (cà phê), Bình Thuận (thanh long), Phan Thiết (nước mắm), Lạng Sơn (hồi), Thanh Hà (vải thiều), Vinh (cam), Hải Hậu (gạo tám xoan), Tân Cương (chè), Hồng Dân (gạo), Lục Ngạn (vải thiều), Đại Hoàng (chuối ngự), Hòa Lộc (xoài cát).

TS Lê Thị Thu Hà

» Dịch vụ đăng ký chỉ dẫn địa lý

SBLAW tư vấn về bảo hộ thương hiệu và các tài sản trí tuệ khác một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả:
Quý khách cần sử dụng dịch vụ bảo hộ tài sản trí tuệ, vui lòng liên hệ trực tiếp đến.
  • Điện thoại – Chat Zalo
  • Email address
Share by:
Share on facebook
Share on email
Tin tức liên quan

Đăng Ký Trademark tại Mỹ

Câu hỏi: Mình là đại diện của một công ty Việt Nam. Được biết thì bên SBLaw có dịch vụ đăng kí trademark tại Mỹ cho